Có thể lập di chúc để lại quyền sử dụng đất nhưng không được bán hay không?

Pháp luật thừa nhận và bảo hộ quyền lập di chúc của người để lại tài sản. Tuy nhiên, nội dung của di chúc phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật. Vậy có thể lập di chúc để lại quyền sử dụng đất nhưng không được bán hay không?

lap di chuc

Theo quy định tại Điều 609 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về quyền thừa kế. Cụ thể: “Cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho người thừa kế theo pháp luật; hưởng di sản theo di chúc hoặc theo pháp luật”.

Như vậy, người để lại di sản thừa kế có quyền định đoạt tài sản của mình,việc lập di chúc định đoạt tài sản trong đó có việc để lại đất nhưng không cho bán là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật.

Mặt khác, Bộ luật dân sự cũng quy định rõ về điều kiện hợp pháp của di chúc tạikhoản 1 Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:

1. Di chúc hợp pháp phải có đủ điều kiện sau đây:

  1. a) Người lập di chúc minh mẫn, sang suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe dọa, cưỡng ép;
  2. b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cầm của luật, không trái với đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái với quy định của luật”.

Một di chúc sẽ được coi là hợp pháp khi di chúc đó được lập khi người lập di chúc minh mẫn, sang suốt, không bị đe dọa, lừa dối, cưỡng ép. Và nội dung của di chúc không trái với quy định của pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức không trái với quy định của pháp luật. Trường hợp nội dung di chúc để lại quyền sử dụng đất nếu đáp ứng đủ các điều kiện quy định trên hoàn toàn có thể nêu rõ việc không được phép bán hay chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Điều này không vi phạm điều cấm của Luật và cũng không trái với đạo đức xã hội.

Đối với những người được hưởng thừa kế khi được thừa kế mảnh đất mà trong di chúc ghi không cho bán thì có thể chia làm 2 trường hợp:

Trường hợp 1: mảnh đất mà người để lại di sản nêu rõ là di sản dùng vào việc thừa cúng thì khi đó những người thừa kế sẽ không được chia thừa kế đối với di sản này và không được bán thửa đất đó. Cho dù có sự đồng ý của tất cả các đồng thừa kế về việc bán thửa đất đó.

Căn cứ pháp lý: khoản 1 Điều 645 Luật dân sự 2015 quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng:

1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.

Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.

Trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật”.

Trường hợp 2: Nếu trong di chúc không nêu rõ sẽ sử dụng thửa đất đó vào việc thờ cúng mà chỉ có nguyện vọng những người hưởng di sản không bán. Nếu đúng theo nguyện ý của người để lại di sản thì người được hưởng di sản cũng sẽ không được bán mảnh đất đó.

Về cách này thì sẽ rất khó để kiểm soát việc người thừa kế có thực hiện theo đúng ý nguyện của người để lại di sản. Bởi theo quy định của pháp luật, người thừa kế có quyền làm thủ tục để đăng ký sang tên quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở mà họ được nhận theo di chúc. Khi đã trở thành chủ sở hữu căn nhà, họ sẽ có toàn quyền của sở hữu theo quy định của pháp luật, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Việc bán hay không bán khối tài sản lúc này không chịu một yếu tố ràng buộc nào cả.